Hội chứng Down là dị tật bẩm sinh gây ra bởi đột biến số lượng nhiễm sắc thể dẫn đến dư thừa 1 nhiễm sắc thể ở cặp số 21. Tỉ lệ mắc hội chứng Down là 1/700 và có sự gia tăng theo độ tuổi của người mẹ.
Nội dung:
Tổng quan về Hội chứng Down
Hội chứng Down là dị tật bẩm sinh gây ra do đột biến số lượng nhiễm sắc thể, khiến cho bộ nhiễm sắc thể (NST) của trẻ có thêm 1 NST ở cặp số 21.
Thông thường, một em bé được sinh ra với 46 nhiễm sắc thể. Em bé mắc hội chứng Down có thêm một bản sao của một trong số các nhiễm sắc thể này, nhiễm sắc thể 21.
Thuật ngữ y học để có thêm một bản sao của nhiễm sắc thể là ‘trisomy‘. Do đó, hội chứng Down còn được gọi là Trisomy 21.
Khi làm xét nghiệm Karyotype phân tích nhiễm sắc thể đồ ở bệnh nhân mắc hội chứng Down, công thức nhiễm sắc thể sẽ có đặc điểm đặc trưng:
* Nam giới mắc bệnh Down: 47, XY, +21
* Nữ giới mắc bệnh Down: 47, XX, +21
Bản sao thêm của nhiễm sắc thể 21 này đã dẫn đến sự thay đổi quá trình phát triển bình thường của thai nhi và ảnh hưởng nhiều nhất đến não bộ của em bé khi sinh ra.
Mặc dù những người mắc hội chứng Down có thể sinh hoạt bình thường và trông giống nhau, mỗi người sẽ có những khả năng khác nhau. Những người mắc hội chứng Down thường có chỉ số IQ (thước đo trí thông minh) trong phạm vi từ nhẹ đến vừa phải và chậm nói hơn những đứa trẻ khác. IQ trung bình của một người trẻ tuổi mắc hội chứng Down là 50, tương đương với khả năng tinh thần của một đứa trẻ 8 hoặc 9 tuổi.
Một số đặc điểm thể chất điển hình của trẻ mắc hội chứng Down:
- Khuôn mặt phẳng, đặc biệt là sống mũi.
- Đôi mắt hình quả hạnh nghiêng lên.
- Cổ ngắn.
- Tai nhỏ.
- Lưỡi có xu hướng nhô ra khỏi miệng.
- Những đốm trắng nhỏ trên mống mắt (phần màu) của mắt.
- Bàn tay và bàn chân nhỏ.
- Một đường duy nhất trên lòng bàn tay (nếp nhăn của palmar).
- Những ngón tay nhỏ nhắn hồng hào đôi khi cong về phía ngón tay cái.
- Trương lực cơ kém hoặc khớp lỏng lẻo.
- Chiều cao thấp, ở cả trẻ em và người lớn.
Tỷ lệ trẻ em sinh ra mắc hội chứng Down là bao nhiêu?
Hội chứng Down vẫn là tình trạng đột biến di truyền phổ biến nhất được chẩn đoán ở trẻ em trên thế giới.
Hội chứng Down xảy ra với tỉ lệ 1/700 ( 1 trong 700 trẻ sơ sinh có nguy cơ mắc)
Khoảng 5.300 trẻ mắc hội chứng Down được sinh ra ở Hoa Kỳ mỗi năm và khoảng 200.000 người ở quốc gia này mắc chứng bệnh này. Mặc dù phụ nữ ở mọi lứa tuổi đều có thể sinh con mắc hội chứng Down, nhưng cơ hội sinh con mắc bệnh này sẽ tăng lên khi phụ nữ lớn lên.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), cứ 1.000 trẻ sinh ra thì có 1 trẻ bị hội chứng Down.
Tại Việt Nam, dù đã được tầm soát trước khi sinh, mỗi năm vẫn có gần 2.000 trẻ bị hội chứng Down ra đời.
Phân loại hội chứng Down
Trong thực tế, những người mắc các thể khác nhau của hội chứng Down thường không có sự khác biệt về đặc điểm ngoại hình và hành vi giao tiếp. Tuy nhiên, dựa vào các tiêu chí ở mức độ nhiễm sắc thể, có 3 kiểu khác nhau của hội chứng Down đã được phát hiện:
Trisomy 21: Khoảng 95% những người mắc hội chứng Down rơi vào thể “ba nhiễm sắc thể 21”, với loại hội chứng Down này, mỗi tế bào trong cơ thể có 3 bản sao nhiễm sắc thể 21 thay vì 2 bản sao thông thường.
Hội chứng Down chuyển đoạn (Translocation Down syndrome): Loại này chiếm một tỷ lệ nhỏ trong số những người mắc hội chứng Down (khoảng 3%). Điều này xảy ra khi một đoạn của nhiễm sắc thể 21 dính vào một nhiễm sắc thể khác (chuyển đoạn) trước hoặc sau thụ tinh. Đứa bé sinh ra có hai bản sao bình thường của nhiễm sắc thể 21, nhưng bé cũng có thêm vật chất di truyền từ nhiễm sắc thể 21 dính vào sắc thể khác.
Hội chứng Down thể khảm (Mosaic Down Syndrome): Loại này ảnh hưởng đến khoảng 2% số người mắc hội chứng Down. Khảm có nghĩa là hỗn hợp hoặc kết hợp. Đối với trẻ mắc hội chứng khảm Down, một số tế bào của chúng có 3 bản sao nhiễm sắc thể 21, nhưng các tế bào khác có hai bản sao nhiễm sắc thể điển hình 21. Trẻ mắc hội chứng khảm Down có thể có các đặc điểm giống như những trẻ mắc hội chứng Down khác.
Các tên gọi khác của hội chứng Down:
- Down’s syndrome
- trisomy 21
- trisomy G
Cơ chế gây bệnh của hội chứng Down
Down là hội chứng do đột biến nhiễm sắc thể được bác sĩ LangDon Down lần đầu mô tả vào năm 1887. Đến năm 1957, nguyên nhân của bệnh được phát hiện là do thừa 1 nhiễm sắc thể 21, tức là có 3 nhiễm sắc thể 21 trong bộ gen hay còn gọi là Trisomy 21.
Sự dư thừa vật chất di truyền đã dẫn đến quá trình biểu hiện quá mức của một bộ phận chức năng của 310 gen nằm trên nhiễm sắc thể số 21. Khoảng 50% sự biểu hiện quá mức này có nguyên nhân đến từ bản sao thứ 3 của nhiễm sắc thể này.
Một số nghiên cứu cũng chỉ ra rằng khu vực thay đổi quan trọng gây ra hội chứng Down nằm ở dải vị trí 21q22.1–q22.3 trên nhiễm sắc thể đồ. Các microRNA cũng đã được các nhà nghiên cứu dự đoán là cũng đóng vai trò tham gia nhất định. Tuy nhiên, những dự đoán này vẫn chưa có những bằng chứng xác đáng từ các nghiên cứu khoa học.
Ở một khía cạnh khác, chứng mất trí xảy ra trong hội chứng Down là do dư thừa peptide beta amyloid được sản xuất trong não và tương tự như bệnh Alzheimer, cũng liên quan đến sự tích tụ beta amyloid. Amyloid beta được xử lý từ protein tiền chất amyloid, gen nằm trên nhiễm sắc thể 21.
Những người mắc hội chứng Down cũng thiếu một số lượng tế bào lympho bình thường và tạo ra ít kháng thể hơn góp phần làm tăng nguy cơ nhiễm trùng.
Như vậy, các yếu tố nguy cơ gây ra bệnh Down ở trẻ có thể xuất phát từ các nguyên nhân chính sau:
Do người mẹ sinh con khi tuổi đã cao:
Tuổi càng cao, khả năng cơ thể phân chia nhiễm sắc thể trong quá trình phân chia tế bào trứng bị ảnh hưởng, dễ gây sai sót và dẫn đến nguy cơ thai nhi bị hội chứng Down.
Các nghiên cứu khoa học đã cho thấy nguy cơ mắc hội chứng Down có sự gia tăng theo độ tuổi của người mẹ:
- < 30 tuổi: 1/2.500
- 30-34 tuổi: 1/1.200
- 35-39 tuổi: 1/300
- 40-45 tuổi: 1/100
- > 45 tuổi: 1/50
Ở những người mẹ đã sinh con bị hội chứng Down:
Mặc dù tỷ lệ mắc là khoảng 0,7/100 lần sinh nở, nhưng những người mẹ từng sinh con bị hội chứng Down có thể gặp phải tình trạng này ở lần thứ sinh con thứ 2.
Do bố mẹ mang nhiễm sắc thể chuyển đoạn:
Nhiễm sắc thể chuyển đoạn dẫn đến tinh trùng hoặc trứng mang nhiễm sắc thể bất thường. Khi kết hợp với trứng, tinh trùng có nhiễm sắc thể bình thường vẫn tạo ra khả năng thai nhi bị Down.
Hội chứng Down có di truyền không?
Trong đa số trường hợp, hội chứng Down được xác định là không di truyền bởi vì sự phân bào lỗi xảy ra ở các tháng đầu tiên của quá trình phát triển ban đầu của bào thai.
Mặc dù vậy chỉ có khoảng 3-4% các bé mắc hội chứng Down chuyển đoạn và chỉ một số ít trong số trẻ thừa hưởng yếu tố di truyền chuyển đoạn nhận từ bố hay mẹ mình.
Khi sự chuyển đoạn cân bằng được di truyền, người bố hay mẹ có một số sắp xếp lại vật chất di truyền của nhiễm sắc thể 21 nằm trên nhiễm sắc thể khác, nhưng không có vật chất di truyền nào được thêm vào.
Điều đó nghĩa là người bố hoặc mẹ ấy sẽ không có dấu hiệu và triệu chứng của hội chứng Down nhưng có thể truyền một chuyển đoạn không cân bằng cho con cái họ, gây ra hội chứng Down cho đứa trẻ.
Những người bị hội chứng Down chuyển vị trí có thể di truyền tình trạng này từ cha hoặc mẹ không bị ảnh hưởng.
Bố mẹ mang một sự sắp xếp lại vật chất di truyền giữa nhiễm sắc thể số 21 và nhiễm sắc thể khác. Sự sắp xếp lại này được gọi là sự chuyển vị cân bằng (balanced translocation).
Không có vật liệu di truyền nào được thu nhận hoặc mất đi trong quá trình chuyển vị cân bằng, vì vậy những thay đổi nhiễm sắc thể này thường không gây ra bất kỳ vấn đề sức khỏe nào.
Tuy nhiên, khi sự chuyển dịch này được truyền sang thế hệ tiếp theo, nó có thể trở nên mất cân bằng. Những người thừa hưởng sự chuyển đoạn không cân bằng liên quan đến nhiễm sắc thể 21 có thể có thêm vật liệu di truyền từ nhiễm sắc thể 21, gây ra hội chứng Down.
Giống như trisomy 21, hội chứng Down khảm không di truyền. Hiện tượng này xảy ra như một sự kiện ngẫu nhiên trong quá trình phân chia tế bào sớm trong quá trình phát triển của bào thai. Kết quả là, một số tế bào của cơ thể có hai bản sao thông thường của nhiễm sắc thể 21, và các tế bào khác có ba bản sao của nhiễm sắc thể này.
Xét nghiệm chẩn đoán hội chứng Down
Bệnh Down không thể chữa khỏi tuy nhiên có thể phát hiện trong khoảng thời gian đầu của thai kỳ.
Có hai loại xét nghiệm cơ bản có sẵn để phát hiện hội chứng Down khi mang thai: xét nghiệm sàng lọc trước sinh và xét nghiệm chẩn đoán.
2 loại xét nghiệm này được khuyến cáo cho tất cả các thai phụ ở tất cả các độ tuổi.
Xét nghiệm sàng lọc bệnh Down
Các xét nghiệm sàng lọc thường bao gồm kết hợp xét nghiệm máu, đo lượng chất khác nhau trong máu mẹ (ví dụ: MS-AFP, Triple Screen, Quad-screen) và siêu âm, tạo ra hình ảnh của em bé.
Trong quá trình siêu âm, các phát hiện cho thấy nguy cơ gia tăng khi được nhìn thấy ở tuổi thai từ 14 đến 24 tuần bao gồm xương mũi nhỏ hoặc không có mũi, tâm thất lớn, độ dày nếp gấp và một động mạch dưới đòn phải bất thường.
Độ mờ da gáy của thai nhi (Nuchal scan) tăng cho thấy nguy cơ mắc hội chứng Down là khoảng 75-80% trong số các trường hợp và tỷ lệ dương tính giả là khoảng 6%.
Hiếm khi, xét nghiệm sàng lọc có thể cho kết quả bất thường ngay cả khi không có gì sai sót đối với bào thai. Đôi khi, kết quả kiểm tra là bình thường và kỹ thuật viên có thể đã bỏ lỡ một nguy cơ tồn tại với bào thai ở ngay từ giai đoạn đầu.
Xét nghiệm chẩn đoán
Các xét nghiệm chẩn đoán thường được thực hiện sau xét nghiệm sàng lọc dương tính để xác nhận chẩn đoán hội chứng Down.
Các loại xét nghiệm chẩn đoán Trisomy 21 bao gồm:
1/ Lấy mẫu lông nhung màng đệm (Chorionic villus sampling, CVS)
2/ Chọc ối để kiểm tra dịch nước ối (Amniocentesis)
3/ Lấy mẫu máu rốn qua da (Cordocentesis) máu máu từ dây rốn
Những xét nghiệm này sẽ tìm kiếm những chỉ dấu thay đổi trong nhiễm sắc thể để đưa ra chẩn đoán về nguy cơ bị Down.
Xét nghiệm sàng lọc tổng hợp
được tiến hành hai bước lần lượt ở ba tháng đầu và ba tháng giữa thai kỳ. Kết quả sẽ được tổng hợp lại để dự đoán nguy cơ mắc hội chứng Down của thai nhi.
Double test: tiến hành ở ba tháng đầu thai kì (kết hợp với siêu âm đo độ mờ da gáy)
Triple test: làm ở ba tháng giữa thai kì (xét nghiệm bốn yếu tố trong máu liên quan đến thai nghén bao gồm alpha fetoprotein, estriol, HCG and inhibin A)
Xét nghiệm sàng lọc không xâm lấn NIPT (Non – Invasive Prenatal Test): Là phương pháp xét nghiệm trước sinh mới nhất và hiện đại nhất trên thế giới ở thời điểm hiện tại. Để làm xét nghiệm NIPT, chỉ cần lấy 7ml máu tĩnh mạch cách tay của mẹ từ tuần thứ 7 để phân tích các ADN tự do của thai nhi tan trong máu mẹ bằng công nghệ giải trình tự gen thế hệ mới (Next Generation Sequencing, NGS).
Các bất thường NST sẽ được phát hiện ở thời điểm rất sớm với độ chính xác lên đến 99.9%. Bởi vì lấy máu mẹ mà không cần chọc ối nên NIPT tuyệt đối an toàn cho cả mẹ và thai nhi.
Hội chứng Down có chữa được không?
Hội chứng Down là một tình trạng bệnh lý tồn tại suốt đời.
Các biện pháp hỗ trợ sớm trong cuộc sống hàng ngày sẽ giúp trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ mắc hội chứng Down cải thiện khả năng thể chất và trí tuệ.
Hầu hết các phương pháp điều trị tập trung vào việc giúp trẻ mắc hội chứng Down có thể tự chủ được các hoạt động thường ngày như tự ăn uống, thay quần áo, vệ sinh cá nhân… và hòa nhập cùng với các bạn cùng lứa tuổi (tham gia trò chơi, suy nghĩ giải quyết vấn đề, giao tiếp và lắng nghe lời bố mẹ, thầy cô…)
Những phương pháp này bao gồm lời nói, nghề nghiệp và vật lý trị liệu và thường được cung cấp thông qua các chương trình can thiệp sớm ở các bệnh viện từ trung ương đến địa phương.
Trẻ em mắc hội chứng Down cũng có thể cần thêm trợ giúp hoặc chú ý ở trường, mặc dù nhiều trẻ em được đưa vào các lớp học bình thường.
Tài liệu tham khảo
- Facts about Down Syndrome
- Down syndrome (Wikipedia)