Human papillomavirus (HPV) là bệnh lây truyền qua đường tình dục (STD) phổ biến nhất trên thế giới. Hầu hết tất cả những người có quan hệ tình dục không chủng ngừa HPV sẽ bị nhiễm HPV vào một thời điểm nào đó trong đời.

Xét nghiệm Human papillomavirus sử dụng một mẫu tế bào để xác định xem liệu tế bào có bị nhiễm chủng HPV nguy cơ cao hay không. Tình trạng viêm nhiễm như vậy nếu kéo dài có thể gây ra những thay đổi trong tế bào cổ tử cung dẫn đến ung thư cổ tử cung.

Xét nghiệm HPV chủ yếu được sử dụng để sàng lọc vi rút gây ung thư cổ tử cung nhưng cũng có thể được sử dụng để lập kế hoạch điều trị cho những bệnh nhân được chẩn đoán mắc bệnh ung thư hầu họng, một loại ung thư ảnh hưởng đến phần giữa của cổ họng.

Mục đích của xét nghiệm định type HPV

Xét nghiệm HPV được tiến hành nhằm phát hiện tình trạng nhiễm một chủng Human papillomavirus nguy cơ cao. Xét nghiệm HPV có thể được thực hiện trong một số trường hợp:

Tầm soát ung thư cổ tử cung

Các xét nghiệm tầm soát ung thư để tìm ung thư hoặc các tình trạng tiền ung thư trước khi một người trải qua các triệu chứng để phát hiện sớm khi điều trị dễ dàng hơn.

Hầu hết các bệnh ung thư cổ tử cung là do Human papillomavirus gây ra.

Xét nghiệm định type HPV cho phép bệnh nhân bị nhiễm HPV nguy cơ cao được theo dõi hiệu quả và loại bỏ bất kỳ tế bào cổ tử cung bất thường nào trước khi chúng phát triển thành ung thư. Tầm soát ung thư cổ tử cung thích hợp cho bất kỳ ai có cổ tử cung, kể cả phụ nữ và nam giới chuyển giới có cổ tử cung.

Theo dõi

Xét nghiệm HPV có thể được sử dụng như một xét nghiệm theo dõi sau khi xét nghiệm Pap smear bất thường.

Lập kế hoạch điều trị ung thư hầu họng

Ung thư hầu họng là một loại ung thư bắt đầu ở amidan hoặc mặt sau của cổ họng.

Phần lớn các trường hợp ung thư hầu họng là do vi rút HPV gây ra.

Ung thư hầu họng dương tính với HPV có thể được điều trị khác với ung thư hầu họng âm tính với HPV, vì vậy xét nghiệm HPV là một phần quan trọng trong kế hoạch điều trị.

Nhiễm HPV có thể gây ra một số loại ung thư khác, bao gồm ung thư hậu môn, dương vật, âm đạo và âm hộ. Tuy nhiên, xét nghiệm HPV trên những bộ phận này của cơ thể là không phổ biến và thường chỉ được thực hiện cho mục đích nghiên cứu.

Những tiêu chí đánh giá của xét nghiệm HPV

Xét nghiệm HPV phát hiện bằng chứng về sự có mặt của một chủng virus HPV thuộc nhóm nguy cơ cao.

Có hơn 100 chủng virus HPV được biết đến, chỉ một số trong số đó lây lan qua quan hệ tình dục. Các chủng HPV lây truyền qua đường tình dục được chia thành hai loại:

  • HPV nguy cơ thấp: Các chủng HPV nguy cơ thấp hiếm khi liên quan đến ung thư. Trong khi hầu hết các trường hợp nhiễm HPV nguy cơ thấp không gây bệnh, một số chủng HPV nguy cơ thấp có thể gây ra mụn cóc trên bộ phận sinh dục và hậu môn hoặc ở miệng và cổ họng. Các bác sĩ thường có thể chẩn đoán HPV nguy cơ thấp dựa trên các triệu chứng của bệnh nhân, do đó, việc xét nghiệm các chủng này không được thực hiện.
  • HPV nguy cơ cao: Các nhà nghiên cứu đã xác định được khoảng 14 chủng HPV nguy cơ cao. Các chủng này có thể gây ung thư. Xét nghiệm HPV cho biết một người hiện đang hoặc đã bị nhiễm chủng nguy cơ cao, nhưng không phải mọi xét nghiệm HPV đều xác định được chủng HPV cụ thể gây nhiễm trùng. Xác định chủng HPV cụ thể được gọi là xác định kiểu gen HPV.

Các loại xét nghiệm HPV thường chia thành ba loại:

1/ Xét nghiệm DNA HPV:

Trong xét nghiệm DNA HPV, tế bào của bệnh nhân được kiểm tra trong phòng thí nghiệm để tìm vật liệu di truyền (ADN) của HPV. Nếu bằng chứng về HPV được phát hiện, việc xác định kiểu gen của HPV có thể được thực hiện để xác định chủng HPV gây nhiễm trùng cụ thể.

2/ Xét nghiệm HPV ribonucleic acid (RNA):

Trong xét nghiệm HPV RNA, một mẫu tế bào được kiểm tra trong phòng thí nghiệm để tìm một loại vật liệu di truyền khác được gọi là RNA.

Xét nghiệm này cung cấp độ đặc hiệu được cải thiện so với xét nghiệm DNA của HPV, giảm số lượng dương tính giả và theo dõi không cần thiết.

Xét nghiệm RNA của HPV cũng có thể bao gồm việc xác định kiểu gen của HPV.

3/ Phát hiện dấu hiệu tế bào:

Không giống như các loại xét nghiệm HPV khác, xét nghiệm phát hiện dấu hiệu tế bào không tìm kiếm vật chất di truyền của virus HPV.

Thay vào đó, xét nghiệm này tìm kiếm bằng chứng về hai loại protein được gọi là p16 và Ki-67.

Số lượng các protein này tăng cao trong các mẫu tế bào bị nhiễm virus HPV.

Những ai nên làm xét nghiệm HPV

Khi được sử dụng như một xét nghiệm để tầm soát ung thư cổ tử cung, tần suất một người nên làm xét nghiệm HPV phụ thuộc vào độ tuổi, sức khỏe và tiền sử tầm soát ung thư cổ tử cung của họ.

Tầm soát ung thư cổ tử cung có thể bao gồm xét nghiệm Pap smear, xét nghiệm HPV hoặc đồng thời xét nghiệm với cả hai xét nghiệm.

Theo CDC Hoa Kỳ, chỉ nên làm các xét nghiệm HPV để tầm soát cho nữ giới từ 30 tuổi trở lên. Không nên xét nghiệm HPV để tầm soát cho nam giới, người vị thành niên hoặc nữ giới dưới 30 tuổi.

*** Tuổi từ 21 đến 29:

Hầu hết phụ nữ từ 21 đến 29 tuổi nên được tầm soát ung thư cổ tử cung ba năm một lần bằng xét nghiệm tế bào cổ tử cung.

Nhiều nhóm chuyên gia không khuyến nghị xét nghiệm HPV ở nhóm tuổi này vì HPV cực kỳ phổ biến ở những người trẻ tuổi và hầu hết các trường hợp nhiễm HPV đều tự khỏi mà không cần điều trị, vì vậy xét nghiệm dương tính có thể gây hiểu nhầm. Cũng phải mất nhiều năm để nhiễm HPV gây ung thư.

*** Độ tuổi từ 30 đến 65:

Đối với phụ nữ từ 30 đến 65 tuổi, có một số lựa chọn để tầm soát ung thư cổ tử cung.

Bệnh nhân trong độ tuổi này có thể chọn sàng lọc ba năm một lần bằng Pap smear, năm năm một lần với xét nghiệm HPV, hoặc 5 năm một lần với cả Pap smear và xét nghiệm HPV.

Một số người có thể nên làm tầm soát ung thư cổ tử cung thường xuyên hơn nếu họ có một trong các yếu tố nguy cơ sau:

  • Tiền sử phết tế bào cổ tử cung bất thường
  • Đang mắc HIV
  • Thai phụ đã tiếp xúc với diethylstilbestrol (DES) khi đang mang thai
  • Hệ thống miễn dịch suy yếu

Cùng với đó là một số người sẽ không cần tầm soát ung thư cổ tử cung thường xuyên, bao gồm:

  • Người dưới 21 tuổi
  • Những người trên 65 tuổi đã được khám sàng lọc đầy đủ trước đây và không có nguy cơ tăng ung thư cổ tử cung
  • Những người đã cắt bỏ tử cung và không có tiền sử xét nghiệm Pap smear bất thường hoặc ung thư cổ tử cung

Ngoài ra, xét nghiệm HPV cũng có thể được khuyến nghị làm xét nghiệm theo dõi cho những bệnh nhân đã làm xét nghiệm Pap smear bất thường để giúp bác sĩ hiểu liệu những thay đổi tế bào bất thường có liên quan đến nhiễm trùng HPV hay không và cần theo dõi thêm.

Ở những bệnh nhân được chẩn đoán mắc bệnh ung thư hầu họng, xét nghiệm HPV có thể được tiến hành trên một mẫu mô sau khi chẩn đoán ung thư được xác nhận.

Tài liệu tham khảo

  • https://www.cancer.gov/about-cancer/causes-prevention/risk/infectious-agents/hpv-and-cancer
  • https://www.sciencedirect.com/topics/pharmacology-toxicology-and-pharmaceutical-science/human-papillomavirus
  • https://www.nhs.uk/conditions/human-papilloma-virus-hpv/
  • https://medlineplus.gov/hpv.html

Nguồn Novagen