Gen ABCC6 mang thông tin di truyền mã hóa cho protein 6 (được kí hiệu là MRP6 hoặc protein ABCC6).

Protein này được tìm thấy chủ yếu ở gan và thận, với một lượng nhỏ ở các mô khác như da, dạ dày, mạch máu và mắt.

Protein MRP6 thuộc nhóm protein vận chuyển các phân tử qua màng tế bào; tuy nhiên, người ta biết rất ít về các chất được vận chuyển bởi MRP6.

Đặc điểm cấu trúc của gen ABCC6

Trước đây, gen này được chỉ định là gen MRP6 liên quan đến protein MRP6, nhưng tên gọi thích hợp đã được chuẩn hóa lại là gen ABCC6.

Vị trí của gen ABCC6 nằm trên nhiễm sắc thể 16 tại vị trí locus 16p13.1, độ dài khoảng 75 kb và được cấu tạo bởi 31 exon.

vị trí gen ABCC6 trên nhiễm sắc thể 16

Ở giai đoạn dịch mã, trình tự mARN mang thông tin mã hóa cho một polypeptide gồm 1503 axit amin.

Ngoài ra còn có hai gen giả (pseudogene) liên quan đến gen ABCC6 nằm ở vị trí phía trước (upstream) trong hệ gen.

ABCC6-Ψ1 là gen giả đầu tiên, gen này bao gồm vùng gen ngược dòng và các trình tự tương đồng khác nhau, từ exon 1 đến intron 9.

ABCC6Ψ2, là gen giả thứ hai, gen này bao gồm trình tự nucleotit ở vị trí ngược dòng và các nucleotit giữa exon 1 và intron 4.

Có 99% sự giống nhau về trình tự giữa ABCC6 và các pseudogenes của nó.

Gen ABCC6 chủ yếu được biểu hiện trong gan, các ống gần của thận và ở mức độ rất thấp (nếu có) trong các mô bị ảnh hưởng của bệnh nhân.

Các tên gọi khác nhau của gen ABCC6:

  • ABC34
  • anthracycline resistance-associated protein
  • ARA
  • ATP-binding cassette, sub-family C (CFTR/MRP), member 6
  • EST349056
  • MLP1
  • MOAT-E
  • MRP6
  • MRP6_HUMAN
  • multidrug resistance-associated protein 6
  • multispecific organic anion transporter-E

Hội chứng Pseudoxanthoma Elasticum do đột biến gen ABCC6

Pseudoxanthoma elasticum (PXE) là bệnh di truyền lặn trên nhiễm sắc thể thường, được một bác sĩ da liễu người Pháp mô tả vào năm 1881.

Năm 2000, lần đầu tiên người ta công nhận rằng đột biến ở ABCC6 là nguyên nhân gây ra PXE.

Hội chứng PXE là rối loạn di truyền ảnh hưởng tới nhiều hệ thống cơ thể. 

Bệnh được ước tính xuất hiện với tần suất 1/25.000 cho đến 1/100.000 người trong cộng đồng trên toàn thế giới. 

Đặc điểm phân biệt của PXE là sự khoáng hóa của mô liên kết mềm chủ yếu ở da, mắt và các mạch máu động mạch.

cơ quan bị ảnh hưởng do đột biến gen ABCC6

Các tổn thương da của một người bị ảnh hưởng bởi PXE thường bao gồm các mụn nhỏ, màu vàng. Các vết sưng tấy hoặc sẩn thường liên kết với nhau tạo thành các mảng lớn và thường xuất hiện ở một bên cổ và tiến triển đến các vùng cơ gấp khác, chẳng hạn như hố trước (bên trong khuỷu tay), bẹn và hố mắt.

Các tổn thương mắt ảnh hưởng đến hầu hết bệnh nhân PXE trong độ tuổi từ 20 đến 40, mặc dù các dấu hiệu sớm ở mắt rất phổ biến.

Căn bệnh hiếm gặp này xảy ra ở mọi sắc tộc.

Hiện tại vẫn chưa có phương pháp điều trị hiệu quả nào cho bệnh PXE nói chung, tuy nhiên, các dấu hiệu như chảy máu mắt có thể được kiểm soát phần nào hiệu quả bằng cách sử dụng các phương pháp điều trị hiện tại cho bệnh thoái hóa điểm vàng do tuổi tác.

Hơn nữa, PXE cho thấy các đặc điểm kiểu hình tương tự với các vấn đề sức khỏe thông thường khác như bệnh thận (bệnh thận mãn tính (CKD) và bệnh thận hư) và các bệnh tim mạch (bệnh mạch vành, bệnh cơ tim và rối loạn lipid máu), làm cho PXE trở thành một rối loạn di truyền khá phức tạp.

PXE chủ yếu do đột biến gen ABCC6 gây ra. Gen này mã hóa protein xuyên màng ABCC6, có thể hoạt động như một chất vận chuyển và chủ yếu được biểu hiện ở thận và gan.

PXE là một bệnh có sự biến đổi kiểu hình cao và hơn 300 đột biến đã được ghi nhận trong gen ABCC6.

-----------------

ABCC6 (OMIM*603234): di truyền trội và lặn, đột biến gây giả u vàng sợi chun và vôi hóa động mạch.

-----------------

bệnh nhân bị hội chứng PXE do đột biến gen ABCC6

Các nốt sần trên cổ của bệnh nhân pseudoxanthoma elasticum (PXE). Sự vôi hóa của các sợi đàn hồi trong da có thể dẫn đến các tổn thương trên da, đó là các sẩn nhỏ, màu vàng, phẳng, phát triển điển hình trên cổ, như mô tả trong ảnh.
(Nguồn ảnh: PXE International)

Tài liệu tham khảo

Int. J. Mol. Sci. 2021, 22(6), 2858; https://doi.org/10.3390/ijms22062858

Int. J. Mol. Sci. 2017, 18(7), 1488; https://doi.org/10.3390/ijms18071488