Ung thư cổ tử cung là bệnh lý ác tính hình thành trong các mô cổ tử cung, cơ quan kết nối tử cung và âm đạo.

HPV được xác định là nguyên nhân chính gây ung thư cổ tử cung khi đây là yếu tố có mặt ở khoảng trên 90% ca mắc, đặc biệt là HPV 16HPV 18.

Tại Việt Nam, mỗi năm ước tính có khoảng 5.000 trường hợp mắc mới căn bệnh ác tính này.

Theo Khoa Phòng chống bệnh không lây nhiễm, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật TP.HCM, ung thư cổ tử cung do nhiễm HPV thường tiến triển qua 4 giai đoạn.

Do đó khám, thực hiện xét nghiệm tầm soát ung thư cổ tử cung là biện pháp phòng bệnh quan trọng nhất. Phát hiện sớm các bất thường sẽ giúp chúng ta không mắc bệnh hoặc nếu mắc bệnh thì điều trị sẽ có kết quả khả quan.

Giai đoạn 1: Nhiễm Human Papillomavirus (HPV)

Trên thực tế, ở độ tuổi có quan hệ tình dục, có khoảng 50% phụ nữ bị nhiễm HPV. Hầu hết các trường hợp nhiễm HPV đều tự khỏi và không gây tổn hại đến sức khỏe, nhưng một số trường hợp nhiễm thời gian dài với các chủng HPV nguy cơ cao (HPV 16, HPV 18…) làm cho tế bào của cổ tử cung phát triển bất thường và tiến triển thành tiền ung thư cổ tử cung.

Giai đoạn 2: Loạn sản và tiền ung thư

Có khoảng 10% phụ nữ bị nhiễm HPV sẽ trở thành nhiễm kéo dài và một phần nhỏ trong số nhiễm kéo dài sẽ phát triển sang giai đoạn tiền ung thư. Phụ nữ trong giai đoạn này vẫn bình thường, không có triệu chứng và chưa được gọi là mắc bệnh ung thư. Giai đoạn này nếu phát hiện sớm và có phương pháp điều trị kịp thời thì bệnh sẽ không phát triển thành ung thư.

Giai đoạn 3: Ung thư tại chỗ

Có khoảng 12% những người trong giai đoạn 2 sẽ phát triển thành ung thư. Ở giai đoạn này, các tế bào ung thư phát triển chủ yếu tại cổ tử cung. Nếu được điều trị hợp lý sẽ đem lại một kết quả khả quan cho người bệnh.

Giai đoạn 4: Ung thư giai đoạn di căn

Trong giai đoạn này, nếu không được điều trị hay điều trị thất bại, các tế bào ung thư xâm lấn sang các bộ phận khác của cơ thể, đây chính là giai đoạn nguy hiểm, đe dọa tính mạng người bệnh. Điều trị phải phối hợp nhiều phương pháp ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe người bệnh với chi phí cao mà tỷ lệ điều trị khỏi không cao.